Tương quan lực lượng Hải chiến Hoàng Hải (1894)

Trung Quốc

Năm 1884, Hạm đội Bắc Dương là hạm đội lớn thứ hai của nhà Thanh và dần dần thu hẹp khoảng cách với Hạm đội Nam Dương lúc đó đang đóng tại Thượng Hải. Đến năm 1890, nó đã là hạm đội lớn nhất trong bốn hạm đội của Trung Quốc. Nòng cốt của Hạm đội Bắc Dương bao gồm chủ yếu là các thiết giáp hạm được đóng ở nước Đức và Anh, đặc biệt là các kỳ hạm Định Viễn và Trấn Viễn được mua từ nước Đức. Vào năm 1890, Hạm đội Bắc Dương đang ở đỉnh cao với 78 chiếc tàu, với tổng trọng tải lên tới 83.900 tấn, được coi là mạnh nhất châu Á và mạnh thứ 8 trên thế giới.

Về mặt lý thuyết, trong trận này, Nhật Bản có tổng khối lượng các tàu lớn hơn (38.000 tấn so với 31.000 tấn). Tuy nhiên, Trung Quốc có tàu chủ lực vượt trội hơn, đó là 2 chiếc Thiết giáp hạm Định ViễnThiết giáp hạm Trấn Viễn (tới thời điểm này, hải quân Nhật Bản vẫn chưa có thiết giáp hạm). 2 chiếc thiết giáp hạm này có vỏ giáp dày 360mm, không thể bị công phá bởi các khẩu pháo trên tuần dương hạm Nhật Bản (muốn hạ 2 tàu này, Nhật chỉ có thể dùng ngư lôi, nhưng ngư lôi thời kỳ đó chỉ có tầm bắn ngắn và thiếu chính xác). Trấn Viễn và Định Viễn được công nhận là một trong những chiếc tầu chiến tiên tiến nhất thời đó, nó có chất lượng ngang bằng hoặc thậm chí còn tốt hơn so với các con tàu trong hạm đội của Anh và Đức khi nó được đóng, với chi phí mỗi chiếc là 1,7 triệu lạng bạc (6.200.000 mark bằng vàng của Đức)

Về hỏa lực, các tàu Trung Quốc có ưu thế: họ có 8 khẩu pháo 305mm, vài khẩu đại bác cỡ nòng 10 inch (254mm) và 8 inch (203mm). Về lý thuyết, các khẩu pháo cỡ 203mm trở lên đều có thể bắn chìm các tàu chiến của Nhật bản trong trận này (ngược lại, các khẩu pháo của Nhật không thể bắn chìm được Trấn Viễn và Định Viễn). Nhìn chung, hai chiếc Trấn Viễn và Định Viễn đem lại ưu thế rất lớn cho Trung Quốc trong trận hải chiến này.

Tuy nhiên, Trung Quốc đã không chuẩn bị kỹ để tác chiến. Lính pháo binh Trung Quốc từ vài tháng trước đó đã không được cấp đạn huấn luyện và cũng không nắm được tác động do sức ép của hỏa lực đại bác. Việc mua sắm vũ khí cho hạm đội Trung Quốc bị dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được Từ Hi Thái hậu chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh, kết quả là tàu Trung Quốc bị thiếu đạn (8 khẩu pháo 305mm trên 2 chiếc thiết giáp hạm chỉ có 300 viên đạn trong kho, chiến đấu chỉ được ít lâu là hết đạn). Kế hoạch thay thế các khẩu pháo 305mm trên 2 chiếc thiết giáp hạm bằng loại pháo 305mm kiểu mới, có tốc độ bắn cao hơn và chính xác hơn đã được đề ra từ năm 1892, nhưng không có kinh phí để thực hiện.

Tham nhũng cũng đóng một vai trò trong việc làm suy yếu hải quân Trung Quốc: nhiều trái đạn pháo dường như bị rút ruột thuốc nổ rồi nhồi mạt cưa và nước vào bên trong, một trong số các chiến hạm đang dùng buồng pháo của nó để lưu trữ dấm chua, và ít nhất có một trường hợp một cặp đạn pháo 10 inch đã được đem ra ngoài chợ để cầm đồ lấy tiền. Hậu cần gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại.

Trước trận chiến với Nhật, tàu chiến và vũ trang của hạm đội Trung Quốc đã được kiểm tra, và tàu đã được sơn lại. Philo McGiffin vào lúc đó đã cho rằng, tàu chiến Trung Quốc đã được sơn bằng 'màu xám vô hình', dù các bức ảnh ngày nay cho thấy một thân tàu và một siêu cấu trúc sáng, do đó có lẽ chỉ có các cấu trúc trắng và ống khói da bò đã được sơn màu xám, còn thân tàu vẫn là màu đen. McGiffen cũng đã cho rằng nhiều viên đạn pháo đã cũ 30 năm và chất lượng tệ hại. Các tấm chắn mỏng bao phủ các bệ pháo trên một số tàu đã bị dỡ bỏ khiến pháo thủ đã bị những mảnh đạn pháo bắn vào gây thương vong. Chiếc Tế Viễn trở lại cảng sau trận này với Nhật Bản đã cho thấy những vấn đề trên.

Sĩ khí của quân đội Thanh nói chung là rất thấp, việc binh sĩ ốm yếu do sử dụng thuốc phiện, lãnh đạo kém trong một bộ phận chỉ huy, và một số thuyền trưởng Trung Quốc đã chạy trốn khỏi trận đánh cũng góp phần vào thất bại. Cuối cùng là sự đố kị, tính cục bộ địa phương giữa các hạm đội Trung Quốc cũng khiến họ thất bại: trước và sau trận chiến, Hạm đội Nam Dương đã có rất ít các cố gắng để cứu viện cho Hạm đội Bắc Dương.

Nhật Bản

Trong khi đó, người Nhật thì tin tưởng vào khả năng của chính họ. Người Trung Quốc thì vẫn có một cố vấn và người hướng dẫn nước ngoài. Cụ thể, viên đại tá người Đức, Đại tá von Hanneken, gần lúc đó đến từ Triều Tiên, đã được bổ nhiệm làm cố vấn hải quân cho Đô Đốc Đinh Nhữ Xương. W. F. Tyler, một trung úy dự bị của Hải quân Hoàng gia và một sĩ quan Hàng hải Hoàng gia (Imperial Maritime Customs officer) đã được bổ nhiệm làm trợ lý cho von Hanneken. Philo McGiffen, trước đó là một thiếu úy của Hải quân Hoa Kỳ là một trợ giáo tại Học viện Hải quân Uy Hải Vệ đã được bổ nhiệm đến Đại chiến hạm Trấn Viễn làm một cố vấn hay một đồng chỉ huy.

Ở giai đoạn đó, Hải quân Đế quốc Nhật Bản có một hạm đội gồm 12 tàu chiến hiện đại, 22 tàu phóng ngư lôi, và rất nhiều tầu thương mại được trang bị vũ khí và chuyển đổi cho mục đích chiến đấu. Nhật Bản vẫn chưa có đủ các nguồn lực để đóng hoặc mua được các thiết giáp hạm có trọng tải lớn và do đó họ lên kế hoạch để sử dụng “Jeune Ecole” làm học thuyết, đó là dùng tàu chiến nhỏ và nhanh, đặc biệt là các tàu tuần dươngtàu phóng lôi để chống lại các loại táu lớn hơn và kém nhanh nhẹn hơn.

Hỏa lực mạnh nhất trên các tàu Nhật là khẩu pháo 320 mm được gắn trên kỳ hạm Matsushima, chiếc Itsukushima và chiếc Hashidate (mỗi tàu có 1 khẩu). Sức giật của một khẩu pháo là rất lớn đối với loại tàu nhỏ như vậy và thời gian nạp đạn của khẩu súng này rất lâu, tuy nhiên chúng đã hoàn thành tốt nhiệm vụ so với Hạm đội Trung Quốc vốn bị thiếu đạn dược và chỉ huy quá kém cỏi.

Nhiều tàu chiến lớn của Nhật Bản đã được chế tạo tại xưởng đóng tàu Anh và Pháp (tám chiếc do người Anh đóng, ba chiếc do người Pháp đóng và hai chiếc do người Nhật Bản tự đóng) và 16 tàu phóng ngư lôi như đã được đóng ở Pháp và lắp ráp tại Nhật Bản.